Kết quả phân tích 10 chỉ số thành phần được phân loại như sau: Có 6/10 chỉ số tăng điểm và tăng xếp hạng; Có 4/10 chỉ số giảm điểm và giảm xếp hạng. Các chỉ số giảm điểm cụ thể: Chi phí không chính thức giảm 0,24 điểm và xếp hạng giảm 47 bậc; Cạnh tranh bình đẳng giảm 0,14 điểm và xếp hạng giảm 8 bậc; Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp giảm 0,37 điểm và xếp hạng giảm 30 bậc; Thiết chế pháp lý & ANTT giảm 0,69 điểm và xếp hạng giảm 35 bậc.
Chỉ số Chi phí không chính thức đạt 6,39 điểm, xếp thứ 52/63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Chỉ số này có mức giảm xếp hạng nhiều nhất trong 10 chỉ số (giảm 47 bậc). Trong số 16 chỉ tiêu đánh giá của chỉ số này có 9/16 chỉ tiêu tăng điểm (5 chỉ tiêu tăng xếp hạng, 4 chỉ tiêu giảm xếp hạng); 7/16 chỉ tiêu giảm điểm (2 chỉ tiêu tăng xếp hạng, 5 chỉ tiêu giảm xếp hạng). Một số chỉ tiêu đã có sự cải thiện: Tỷ lệ DN trả chi phí không chính thức (CPKCT) cho cán bộ thanh, kiểm tra môi trường (tăng 56 bậc, đứng đầu cả nước); Tỷ lệ DN trả CPKCT khi thực hiện thủ tục ĐKDN/sửa đổi ĐKDN (tăng 27 bậc, đứng đầu cả nước); Tỷ lệ DN trả CPKCT cho cán bộ thanh, kiểm tra an toàn phòng cháy (tăng 28 bậc).
Đối chiếu với mục tiêu đề ra có 9/16 chỉ tiêu đạt mục tiêu. So sánh với trung vị, chỉ số này có 8/16 chỉ tiêu đạt bằng và cao hơn trung vị. Một số chỉ tiêu cần tập trung cải thiện: Các khoản CPKCT ở mức chấp nhận được (giảm 46 bậc, xếp thứ 51); Tỷ lệ DN trả CPKCT cho cán bộ thanh, kiểm tra xây dựng (xếp thứ 55); DN phải chi hơn 10% doanh thu cho các loại CPKCT (giảm 31 bậc, xếp thứ 60); Tỷ lệ DN chi trả CPKCT để đẩy nhanh việc thực hiện thủ tục đất đai (giảm 32 bậc, xếp thứ 50).
Với chỉ số Cạnh tranh bình đẳng đạt 6,49 điểm, xếp thứ 14/63 tỉnh, thành phố trên cả nước. Đây là chỉ số có mức giảm điểm và xếp hạng ít nhất trong số các chỉ số bị giảm. Tuy rằng bị giảm điểm nhưng kết quả của chỉ số này vẫn nằm trong nhóm các tỉnh có kết quả xếp hạng tương đối tốt. Chỉ số này bao gồm 11 chỉ tiêu đánh giá, trong đó có 4/11 chỉ tiêu tăng điểm (3 chỉ tiêu tăng xếp hạng, 1 chỉ tiêu giảm xếp hạng); 7/11 chỉ tiêu giảm điểm và xếp hạng. Một số chỉ tiêu đã được cải thiện: Tỷ lệ doanh nghiệp đồng ý với nhận định "Sự ưu đãi của tỉnh cho doanh nghiệp lớn (cả DNNN và DN tư nhân và DN FDI) gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tôi" (tăng 9 bậc, xếp thứ 2).
Đối chiếu với mục tiêu đề ra có 4/11 chỉ tiêu đạt mục tiêu. So sánh với trung vị, chỉ số này có 7/11 chỉ tiêu đạt bằng và cao hơn trung vị.
Một số chỉ tiêu cần tập trung cải thiện: Tỷ lệ doanh nghiệp đồng ý với nhận định "Tỉnh ưu tiên thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp lớn hơn là phát triển DNNVV tại địa phương" (giảm 30 bậc); Tỷ lệ doanh nghiệp phản ánh "Thuận lợi trong việc tiếp cận đất đai là đặc quyền dành cho các doanh nghiệp lớn" (giảm 26 bậc); Tỷ lệ doanh nghiệp phản ánh "TTHC nhanh chóng hơn là đặc quyền dành cho các doanh nghiệp lớn" (giảm 16 bậc).
Chỉ số Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đạt 6,12 điểm, xếp thứ 60/63 tỉnh, thành phố. Chỉ số này có xếp hạng thấp nhất trong các chỉ số của PCI năm nay. Chỉ số này bao gồm 13 chỉ tiêu đánh giá, trong đó có 5/13 chỉ tiêu tăng điểm (1 chỉ tiêu tăng xếp hạng, 4 chỉ tiêu giảm xếp hạng); 8/13 chỉ tiêu giảm điểm (1 chỉ tiêu tăng xếp hạng, 7 chỉ tiêu giảm xếp hạng).
Đối chiếu với mục tiêu đề ra chỉ có 2/13 chỉ tiêu đạt mục tiêu. So sánh với trung vị, chỉ số này cũng chỉ có 2/13 chỉ tiêu đạt bằng và cao hơn trung vị. Một số chỉ tiêu cần tập trung cải thiện: Tỷ lệ DN có biết đến các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng cơ hội của các FTAs (giảm 36 bậc); Tỷ lệ DN có biết đến các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng cơ hội của các FTAs (giảm 32 bậc); Tỷ lệ nhà cung cấp tư nhân và nước ngoài trên tổng số nhà cung cấp dịch vụ (giảm 24 bậc, xếp thứ 62).
Chỉ số Thiết chế pháp lý & ANTT đạt 7,36 điểm và xếp thứ 42 cả nước. Chỉ số này bao gồm 18 chỉ tiêu đánh giá, trong đó có 4/18 chỉ tiêu tăng điểm và xếp hạng; 8/13 chỉ tiêu giảm điểm và xếp hạng. Một số chỉ tiêu đã có sự chuyển biến: Tỷ lệ nguyên đơn ngoài quốc doanh trên tổng số nguyên đơn tại Toà án kinh tế tỉnh (giữ vững vị trí dẫn đầu); Tình hình an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh là tốt (tăng 32 bậc, đứng đầu cả nước); Tỷ lệ DN phải trả tiền bảo kê cho các băng nhóm côn đồ, tổ chức xã hội đen để yên ổn làm ăn (tăng 34 bậc, đứng đầu cả nước).
Đối chiếu với mục tiêu đề ra chỉ có 3/18 chỉ tiêu đạt mục tiêu. So sánh với trung vị, chỉ số này có 6/18 chỉ tiêu đạt bằng và cao hơn trung vị. Một số chỉ tiêu cần tập trung cải thiện: Tỷ lệ các vụ án kinh tế đã được giải quyết (giảm 46 bậc, xếp thứ 63); Tỷ lệ DN bị trộm cắp hoặc đột nhập vào năm vừa qua (giảm 44 bậc); Các cơ quan trợ giúp pháp lý hỗ trợ doanh nghiệp dùng luật để khởi kiện khi có tranh chấp (giảm 33 bậc).
Qua phân tích, đánh giá 142 chỉ tiêu thuộc 10 chỉ số thành phần trong bộ chỉ số nâng cao năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2024 cho thấy có 69/142 chỉ tiêu tăng điểm, 73/142 chỉ tiêu bị giảm điểm so với PCI 2023. Đối chiếu với trung vị có 79/142 chỉ tiêu bằng hoặc cao hơn trung vị, 63/142 chỉ tiêu thấp hơn trung vị; có 6/10 chỉ số thành phần cao hơn trung vị, 4/10 chỉ số thành phần thấp hơn trung vị cả nước.
Chỉ số PCI 2024 của tỉnh xếp thứ 32/63 tỉnh thành phố trên cả nước. Kết quả này cũng phản ánh công tác cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và cải cách hành chính trong năm qua của tỉnh là rất nỗ lực, quyết liệt, với sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, kết quả đã đạt được rất khả quan.
Tuy nhiên, để cải thiện xếp hạng PCI của tỉnh trong năm 2025 và các năm tiếp theo ở mức cao hơn nữa cần sự chung tay của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương bằng nhiều giải pháp thiết thực, hiệu quả; trong đó tập trung hơn nữa các tiêu chí, chỉ số có xu hướng tích cực, cải thiện điểm số ở những chỉ tiêu, chỉ số thấp hoặc bị giảm điểm, giảm xếp hạng. Trong đó cần đặc biệt lưu ý các chỉ số như: Chỉ số Chi phí không chính thức (xếp thứ 52 cả nước); chỉ số Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp (xếp thứ 60 cả nước) để tập trung cải thiện trong thời gian tới.