Mới đây, người lính Điện Biên Phạm Văn Xuân vinh dự được trao tặng Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng, phần thưởng cao quý ghi nhận chặng đường dài dấn thân và cống hiến.
Ngược dòng ký ức, ông
Xuân nhớ lại ngày mình rời quê Quảng Ninh lên đường nhập ngũ đầu năm 1951. Khi ấy, ông 21 tuổi, gia nhập Sư đoàn 316, đơn vị bộ binh chủ lực trong chiến dịch Điện
Biên Phủ lừng danh. “Chúng tôi hành quân không ngơi nghỉ, băng rừng, vượt suối,
vác đạn, kéo pháo, lót ổ nằm đất lạnh, ăn sắn luộc, mặc áo vá chằng chịt. Nhưng
chẳng ai nghĩ đến chuyện dừng lại. Tất cả đều hướng về một mục tiêu: đánh thắng
giặc để đất nước được độc lập, nhân dân được yên bình...” - ông
Xuân kể.
Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên năm 1954, ông Xuân trở về quê nhà. Ở đó, có người vợ trẻ - bà Lưu Thị Duyên, sinh năm 1935 đang ngày đêm mong ngóng tin chồng. Thời điểm ấy, đất nước bước vào thời kỳ tái thiết, muôn vàn khó khăn chồng chất. Nhưng trong cái khó, đôi vợ chồng trẻ lại tìm được quyết tâm và lý tưởng sống. Họ cùng nhau quay lại Điện Biên tái thiết vùng đất lửa.
Những năm đầu trở lại Điện Biên,
vùng đất này còn thưa thớt người, núi đồi hoang vu, rừng rậm bạt ngàn. Đường sá
lầy lội, vật tư thiếu thốn. Ông Xuân được phân công về làm việc tại Nông trường
Mường Ảng,
một trong những nông trường trọng điểm do Trung ương chỉ đạo xây dựng nhằm phát
triển kinh tế Tây Bắc sau chiến tranh. “Việc gì cũng phải làm từ đầu: Dọn hố
bom, khai hoang đất trống, dựng kho, dựng lán… Nắng cháy da, mưa dầm đất sạt,
nhưng anh em ai cũng xắn tay vào việc. Bởi hơn ai hết, chúng tôi hiểu nếu không bắt tay
làm, không ai khác sẽ thay mình gây dựng vùng đất này” ông Xuân chậm rãi nhớ lại.
Trong khi ông Xuân bám trụ nông trường, trực tiếp tham gia lao động sản xuất, thì bà Duyên ở nhà vừa chăm sóc con vừa quán xuyến những phần việc không tên. Là một người phụ nữ từng trải, bà không chỉ là người vợ đảm, mẹ hiền mà còn là hậu phương kiên cường. Có những ngày mùa mưa, nước lũ làm nương rẫy mất trắng, con nhỏ ốm đau, nhà chẳng còn gì ăn, nhưng bà vẫn gồng gánh mọi thứ bằng một tinh thần vững vàng. “Tôi tự nhủ, mình không được yếu lòng. Phải giữ vững tổ ấm, để ông ấy yên tâm làm việc. Có hôm dậy từ tinh mơ địu con lên nương, tối lại đón con về trong cơn sốt, mệt thì mệt nhưng nghĩ tới tương lai các con, tôi lại có thêm sức mạnh” - bà Duyên bộc bạch.
Cuộc sống thời ấy gian khổ
là vậy, nhưng chưa bao giờ thấy ông Xuân, bà Duyên than thở hay trách móc. Họ chia sẻ khó
khăn, động viên nhau vượt qua từng giai đoạn khắc nghiệt nhất. Có khi chỉ cần một
bữa cơm ấm nóng sau giờ lao động, một ánh mắt hiểu nhau trong lúc con ốm, cũng
đủ để họ thấy mình may mắn hơn bao người.
Trên công trường, ông Xuân không chỉ là một công nhân mà còn là người bạn, người anh, người đồng chí được nhiều người quý mến. Ông sẵn sàng hướng dẫn kỹ thuật trồng trọt, san sẻ phần ăn cho đồng đội, khích lệ những thanh niên lần đầu lên vùng kinh tế mới. Lúc đó ông nghĩ, chẳng có khái niệm làm cho bản thân. Bởi ông tâm niệm làm cho nông trường là làm cho nhân dân, cho Điện Biên, cho tương lai con cháu.
Còn bà Duyên, ngoài việc nuôi con, bà cũng tích cực tham gia các hoạt động của phụ nữ nông trường, phong trào sản xuất, giúp đỡ các gia đình có hoàn cảnh khó khăn. Người ta thương bà bởi sự chịu khó, lại quý cái tình, cái nghĩa mà bà luôn giữ với hàng xóm, đồng nghiệp. Năm tháng trôi đi, mái tóc bà ngả bạc, nhưng nụ cười thì vẫn hiền như thuở nào.
Nhờ sự bền bỉ của những con người như ông bà, Nông trường Mường Ảng ngày ấy dần vươn lên thành đơn vị sản xuất chủ lực của vùng, mang lại sinh kế cho hàng nghìn lao động. Những cánh rừng bạt ngàn được khai phá thành nương ngô, đồi cà phê; nhà cửa mọc lên san sát; trường học, trạm xá dần hình thành. Một vùng đất từng in dấu bom đạn giờ đây đã hồi sinh, nhịp sống mới đầy sức sống.
“Cứ mỗi mùa vụ qua đi, nhìn cây trái đơm hoa kết quả, con cái trưởng thành, học hành tử tế, mình lại thấy mọi vất vả đều đáng giá” - ông Xuân trải lòng.
Quả thật, vợ chồng ông Xuân đã nuôi dạy con khôn lớn bằng tình thương và tấm gương sống chan chứa nghĩa tình. Giờ đây, các con cháu đều đã trưởng thành, công tác trong nhiều ngành nghề khác nhau. Nhiều người là đảng viên, tiếp nối truyền thống gia đình. Đó là phần thưởng lớn nhất, cũng là thành tựu ông bà luôn tự hào mỗi khi nhắc đến.
Ở tuổi xế chiều, ông Xuân
vẫn tích cực tham gia sinh hoạt chi bộ, luôn gần gũi với thế hệ trẻ, nhắc nhở
con cháu sống có trách nhiệm, giữ gìn truyền thống. Cầm trên tay Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng được
trao, ông Xuân bảo: Thời chúng tôi gian khổ mà không lùi
bước, nay thế hệ trẻ có điều kiện hơn thì càng phải cố gắng. Phải sống sao cho
xứng đáng với những hy sinh của cha ông.
Bà Duyên với 55 năm tuổi Đảng vẫn đều đặn tham gia công tác hội phụ nữ ở địa phương. Dù đã nghỉ hưu từ lâu, nhưng trong mắt mọi người, bà luôn là người “giữ lửa” cho gia đình và cộng đồng. Bà Duyên cho biết, ở độ tuổi này, bà không mong gì hơn là con cháu sống có trước có sau, nghĩa tình và biết nghĩ cho người khác. Còn lại, những gì đã qua, dù có khó khăn đến mấy, nhìn lại bà vẫn thấy hạnh phúc.
Câu chuyện của chiến sĩ Điện Biên Phạm Văn Xuân và bà Lưu Thị Duyên là biểu tượng giản dị mà sâu sắc về một thế hệ đã đi qua chiến tranh, hòa bình, rồi kiến thiết quê hương bằng chính những giọt mồ hôi và cả những nỗi niềm không nói thành lời. Một người chồng xây nông trường bằng sức trẻ và khát vọng, người vợ giữ tổ ấm bằng tình yêu và đức hy sinh. Hai con người, hai vai trò nhưng cùng chung một lý tưởng sống để hôm nay góp phần làm nên diện mạo Điện Biên đang từng ngày thay da, đổi thịt, vươn mình cùng dòng chảy quê hương, đất nước.