Nậm Pồ là huyện có địa hình đồi núi chạy dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, có xu hướng thấp dần từ Bắc xuống Nam và nghiêng dần từ Tây sang Đông; độ cao từ 200m - 1.800m; xen kẽ giữa các dãy núi có dạng địa hình thung lũng, sông suối, thềm bãi bồi... phân bố rộng khắp trên địa bàn nhưng diện tích nhỏ, hẹp làm ảnh hưởng tới khả năng giữ nước và tưới tiêu cho phần lớn diện tích đất canh tác lúa và hoa màu. Mặt khác, Nậm Pồ nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa khô (mùa đông) và mùa mưa (mùa hè). Mùa khô từ tháng 11 năm trước đến tháng 4 năm sau, có gió mùa đông lạnh khô, chịu ảnh hưởng của gió Tây khô nóng (gió Lào); ít mưa, chịu nhiều sương muối và rét hại gây bất lợi cho đời sống và sản xuất nông nghiệp.
Từ thực trạng khí hậu, thời tiết, địa hình ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, đời sống nhân dân, đặc biệt là người dân sống bằng sản xuất nông nghiệp, nương rẫy… Vì thế, bên cạnh quan tâm phát triển hạ tầng nông thôn, các công trình giao thông, điện - đường - trường - trạm, huyện Nậm Pồ đã quan tâm huy động nguồn vốn, dành sự ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình cấp nước sinh hoạt tập trung đến từng bản, cụm dân cư; đồng thời hằng năm huyện bố trí nguồn kinh phí duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa hư hỏng tại các công trình. Ông Hạng Nhè Ly, Phó Chủ tịch UBND huyện Nậm Pồ cho biết: Giai đoạn 2021 - 2025, trên địa bàn huyện thực hiện đầu tư 34 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung (tổng nguồn vốn là 103,26 tỷ đồng), nâng số công trình cấp nước trong toàn huyện lên 108 công trình. Để thực hiện tốt chủ trương nâng cao tỷ lệ người dân nông thôn được tiếp cận và sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh, huyện Nậm Pồ đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ; đẩy mạnh việc tuyên truyền về nước sạch và vệ sinh môi trường; công tác quản lý vận hành công trình cấp nước nông thôn được quan tâm. Hiện tại, toàn huyện có 15/15 xã đã thành lập tổ, hội dùng nước với tổng số 218 thành viên trực tiếp quản lý, vận hành các công trình nước đã được đầu tư xây dựng tại địa bàn. Ngoài nhiệm vụ quản lý, vận hành, bảo dưỡng công trình, thành viên ban quản lý còn có trách nhiệm thực hiện bảo vệ các tác động bên ngoài gây ảnh hưởng đến nguồn nước, nguồn sinh thủy.
Tại bản Mạy Hốc (xã Phìn Hồ), sau khi được đầu tư nâng cấp, sửa chữa, công trình nước sinh hoạt đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng của người dân. Ông Sùng A Vảng, Trưởng bản chia sẻ: “Nếu trước kia người dân phải dùng thùng, xô đi gùi nước ở những khe suối xa bản về để dùng thì hiện nay nước đã được kéo về đến bản, phục vụ sinh hoạt và sản xuất cho nhân dân; đặc biệt nhờ có nguồn nước ổn định mà việc trồng trọt, chăn nuôi trở nên thuận lợi hơn”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì hiện nay trong tổng số 108 công trình nước sinh hoạt trên địa bàn huyện Nậm Pồ vẫn còn 3 công trình hoạt động kém hiệu quả; 13 công trình không hoạt động. Đặc biệt, với những bản vùng cao địa hình hiểm trở, đồi núi dốc bị chia cắt mạnh bởi các dãy núi cao, vực sâu, thường xuyên xảy ra sạt lở đất đá, lũ ống, lũ quét làm thiệt hại, ảnh hưởng đến các công trình nước sinh hoạt. Một số công trình nước sinh hoạt tập trung nông thôn đã được đầu tư xây dựng từ nhiều năm trước nay đã hư hỏng, xuống cấp, hết khấu hao; trong khi nguồn vốn duy tu, sửa chữa hạn hẹp. Do đó công tác quản lý, khai thác, vận hành các công trình nước sinh hoạt sau đầu tư gặp nhiều khó khăn, hiệu quả chưa cao. Ý thức bảo vệ công trình, giữ gìn tài sản công cộng của người dân còn hạn chế.
Để khắc phục tình trạng trên, huyện Nậm Pồ tiếp tục tăng cường tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân trong bảo vệ công trình cấp nước sinh hoạt và huy động sức dân tham gia duy tu, sửa chữa, bảo dưỡng kịp thời khi công trình hư hỏng nhỏ. Rà soát, kiện toàn tổ chức tổ cộng đồng quản lý, vận hành trên địa bàn các xã nhằm nâng cao năng lực quản lý, vận hành bền vững, đảm bảo cả về số lượng và chất lượng, nhất là các công trình đang giao cho cộng đồng thôn bản quản lý, vận hành.
Huyện bố trí ngân sách đủ nguồn lực để hỗ trợ thực hiện đầu tư dự án cung cấp nước sạch cho vùng nông thôn trên địa bàn xã. Đối với những địa bàn doanh nghiệp, cá nhân tham gia đầu tư thì thực hiện theo hình thức xã hội hóa; với các địa bàn vùng sâu, vùng xa, vùng khan hiếm nước, vùng có điều kiện kinh tế khó khăn thì bố trí nguồn ngân sách nhà nước đầu tư. Mặt khác huy động, lồng ghép các nguồn lực, ưu tiên sử dụng kinh phí từ chương trình, dự án nguồn ngân sách và nguồn vốn của các tổ chức phi Chính phủ như: ODA, WB… cho nâng cấp, sửa chữa, cải tạo và mở rộng hệ thống công trình cấp nước nông thôn.
Có thể khẳng định, công trình cấp nước sinh hoạt tập trung đã góp phần quan trọng cải thiện và nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân, đặc biệt là đồng bào DTTS trên địa bàn huyện vùng cao Nậm Pồ. Nhận thức rõ vai trò, giá trị của các công trình nước sinh hoạt, người dân cũng cần nâng cao ý thức, tuân thủ nghiêm túc việc quản lý, vận hành, sử dụng để phát huy hiệu quả một cách cao nhất.
Bài, ảnh: Sầm Phúc