Trường Phổ thông DTBT Tiểu học Pu Nhi (xã Pu Nhi) cách trung tâm xã 15km, nằm sâu trong bản Pu Nhi B. Đường đến trường hun hút xa và cao, giờ đã đi lại thuận lợi, nhưng chỉ vài năm trước là thử thách với mọi tay lái. Cô giáo Phạm Thị Vân công tác tại trường 26 năm, vẫn nhớ như in những ngày gian khó: “Đường đất, nhiều sống trâu; khu vực lại cao hơn nhiều so với trung tâm xã nên lạnh và nhiều sương mù, quãng đường cả chục cây số không có nhà dân. Mỗi lần lên trường hay cuối tuần về nhà là cả chặng đường khó khăn, nhất là vào mùa mưa, lầy lội, trơn trượt. Có lần thứ 6 hết giờ làm, đang trên đường về thì trời đổ mưa, tôi địu con, vừa đi vừa dắt xe đến hơn 10 giờ đêm mới về đến nhà. Giờ đường đã bê tông hóa êm đẹp nhưng nhiều dốc, sáng chiều lạnh và sương mù nên vẫn không ít thầy cô bị ngã xe”.
Gian khó vậy nhưng cô Vân và cán bộ, giáo viên nhà trường vẫn gắn bó với mảnh đất này, lặng thầm gieo yêu thương và tri thức. Hiện Trường Phổ thông DTBT Tiểu học Pu Nhi có 30 cán bộ, giáo viên, nhân viên, 1 điểm trường cách trung tâm hơn 20km, tổng 16 lớp, 392 học sinh; trong đó hơn 100 học sinh bán trú. Thầy Nguyễn Thế Quyền, Hiệu trưởng nhà trường cho biết: “Năm 2019 trường mới xóa nhà tranh tre nứa lá, hiện vẫn còn nhiều phòng lớp học bán kiên cố. Trường tuyển học sinh 6 bản xa, khó khăn bậc nhất của xã, với gần 80% học sinh là con em hộ nghèo. Phụ huynh bận làm nương hoặc đi làm xa, việc quan tâm, đầu tư học tập cho con em hạn chế, nhiều gia đình phó mặc cho nhà trường. Nhiều trường hợp học sinh thiếu sự chăm lo của bố mẹ nên thầy cô phải vận động, đưa đón đi học hàng ngày. Dù còn khó khăn, các thầy, các cô bằng tình yêu nghề và trách nhiệm vẫn luôn nhiệt huyết, nỗ lực không chỉ dạy kiến thức mà còn chăm lo tốt cho học sinh”.
Hơn 1 tháng đầu năm học, cô Phạm Thị Vân thường xuyên phải đón 2 học sinh lớp cô chủ nhiệm (5A1) nhà ở bản Pu Nhi A đến trường mỗi ngày. Trong đó 1 em có bố mẹ đi làm xa, anh chị học xa nhà; 1 em có mẹ đang thi hành án, bố đi làm. Hai em đều ở nhà một mình nên sau kỳ nghỉ hè chưa quen giờ giấc sinh hoạt mới, thường xuyên ngủ quên, không đi học. Những trường hợp tương tự trong trường không ít. Với sự tận tụy của cán bộ, giáo viên nhà trường, học sinh trên địa bàn đều ra trường đầy đủ và đúng độ tuổi, duy trì sĩ số và nền nếp học tập.
Mỗi địa bàn đều có khó khăn riêng, mỗi thầy cô có những câu chuyện nghề đáng nhớ. Với cô Giàng Thị Mỷ (Trường Tiểu học Hua Nguống, xã Mường Ảng), đó là những năm tháng gắn bó với điểm trường Pá Liếng - chỉ cách trường trung tâm 12km, nhưng lại là quãng đường đầy thử thách. Để kịp giờ lên lớp ngày đầu tuần, cô Mỷ phải đi từ tờ mờ sáng, mang theo đồ dùng cá nhân để ở lại trường đến cuối tuần. Hiện đường đến trường đã được san gạt, mở rộng, nhưng nắng thì bụi, mưa lầy lội bùn đất đặc quánh. “Có hôm chỉ đi xe được một đoạn, còn lại phải vừa đẩy xe, vừa khênh. Bùn bám chặt bánh xe, trơn trượt, ngã là chuyện thường”, cô Mỷ kể. Cũng không ít lần, đường sạt lở, cô phải gửi xe, đi bộ vào bản. Dù thời tiết có khắc nghiệt, bất kể mùa nào trong năm, cô Mỷ vẫn luôn cố gắng, không để học sinh phải chờ đợi.
Cô Giàng Thị Mỷ tâm sự: “Dẫu nhiều khó khăn nhưng sự mong chờ của học trò nhỏ, sự chân thành gửi gắm của phụ huynh; nhất là lòng tự hào khi thấy những thế hệ học sinh trưởng thành là động lực giúp tôi không bỏ cuộc, thêm yêu và nhiệt huyết với nghề, tiếp tục sự nghiệp “trồng người” ở vùng cao”.
Năm học 2025 - 2026, toàn tỉnh có 481 trường công lập, trung tâm, 7.406 lớp và 206.758 học sinh, sinh viên, học viên. Với đặc thù miền núi, riêng bậc mầm non và tiểu học có tới 1.147 điểm trường, nhiều điểm trường xa xôi, cách trở, thậm chí chưa có điện lưới quốc gia hay sóng điện thoại. Đường đến trường nhiều nơi là những dốc cao, chông chênh ven đồi, thậm chí đi bộ trèo đèo, lội suối, đi bè... Không chỉ đường sá thử thách mà trường học thiếu thốn cơ sở vật chất, giáo viên ngoài giờ lên lớp còn là “đầu bếp” nấu ăn cho học sinh bán trú, “thợ xây” sửa sang trường lớp, cùng vô vàn những việc không tên để tạo điều kiện, chăm lo tốt nhất cho học sinh. Gian khó nhiều, thiếu thốn không ít, nhưng tình yêu nghề, lòng yêu trẻ và trách nhiệm lại nhiều hơn. Và chính điều đó đã giữ chân họ với những mái trường vùng cao qua năm tháng.
Vượt qua mọi gian khó, cán bộ, giáo viên vẫn ngày ngày “bám bản, bám trường” đưa những chuyến đò tri thức cập bến nơi vùng cao. Mỗi bước chân đến trường là một sự lựa chọn vì học trò, vì ước mong con chữ làm đổi thay, thắp sáng vùng cao, biên giới. Mỗi thầy cô ở bất kỳ trường, điểm trường nào đều xứng đáng được gọi bằng những chữ đẹp nhất: Người trồng người.